Lũ sông Ba ở Đăk Lăk vượt mức lịch sử năm 1993

Trung tâm trò chơi 8344 2

Thứ hai, 17/11/2025, 09:32 (GMT+7)


Lũ sông ở Đăk Lăk, Khánh Hoà vượt mức lịch sử

Tính đến 23h, mục lũ tại trạm Củng Sơn và Phú Lâm trên sông Ba ở Đăk Lăk (Phú Yên cũ) đã vượt mức lịch sử năm 1993, và trạm Ninh Hoà trên sông Cái Dinh, Khánh Hoà, đã cao hơn lũ lịch sử năm 1986.

Trong ngày 19/11, khu vực Nam Trung Bộ lần lượt ghi nhận ba trạm sông có giá trị lũ vượt lịch sử.

Sau khi lên báo động 3 vào 6h sáng nay, lũ tại trạm Ninh Hoà trên sông Cái Dinh (Khánh Hoà) liên tục dâng cao và vượt mức lịch sử sau 17 tiếng. Tính đến 23h, mực nước tại trạm là 6,59 m, cao hơn giá trị lịch sử năm 1986 (6,58 m), và vượt báo động 3 là 0,89 m, theo Hệ thống Giám sát thiên tai Việt Nam (VNDMS).

Tại Phú Yên cũ, lũ tại trạm Phú Lâm, hạ lưu sông Ba, cũng vượt lịch sử 1993 lúc 21h. Hiện, lũ tại trạm này là 5,31 m, cao hơn giá trị lịch sử 0,1 m.

Trước đó, lúc 16h, mực nước tại trạm Củng Sơn trên sông Ba cũng vượt giá trị lịch sử năm 1993 (39,9 m). Đến 23h, lũ tại trạm này lên 40,97 m, vượt mốc
lịch sử là 1,07 m. Trên thượng nguồn lưu vực này, dung tích hồ thuỷ điện Sông Ba Hạ – có vai trò điều tiết lũ cho hạ du – đã đầy từ 10h
sáng 19/11, lưu lượng xả lúc 16h lên tới 16.120 m3/s, lớn nhất từ trước đến nay.

Ở thượng nguồn sông Ba, Phú Yên cũ, trạm AyunPa cũng vượt báo động 3 từ 3h sáng 19/11, liên tục dâng lên mức đỉnh lũ là 157,97 m lúc 17h. Từ 20h, sông qua đỉnh lũ, mực nước giảm dần.

Theo Trung tâm Dự báo Khí tượng Thuỷ văn Quốc gia, đến 20/11, lũ trên sông Kôn (Gia Lai) và sông Ba (Đăk Lăk) tiếp tục lên và ở mức rất cao,
trên báo động 3. Lũ trên sông Krong Ana (Đăk Lăk) trên báo động 2. Lũ trên sông Trà Khúc, Thu Bồn giảm dần quanh mức báo động 1.

Cơ quan khí tượng cảnh báo nguy cơ ngập lụt diện rộng và lũ quét, sạt lở cao ở các tỉnh, thành phố từ Huế đến Khánh Hoà.

Để chủ động ứng phó, độc giả có thể theo dõi mực nước lũ tại các trạm thủy văn và lưu lượng xả của các hồ chứa trọng điểm trong bản đồ dưới
đây. Dữ liệu được cập nhật theo giờ.

Nguy cơ ngập lụt tại các tỉnh, thành miền Trung phụ thuộc lớn vào khả năng điều tiết lũ của các hồ chứa dọc lưu vực sông chính.

Lưu vực sông Ba – đi qua Gia Lai và Đăk Lăk – có 5 hồ lớn để phòng lũ gồm: Ba Hạ, sông Hinh, Krông H Năng, Kanak, AYun Hạ. Hàng năm lũ xảy ra từ tháng 9 đến 12, với đỉnh lũ vượt báo động 3 từ 1-2 m, gây ngập diện rộng ở vùng hạ lưu. Nguyên nhân là do địa hình kéo dài từ Tây Nguyên xuống biển, độ dốc lớn, thượng lưu hẹp, hạ lưu thấp trũng, dòng chảy tập trung nhanh.

Hệ thống sông phân nhánh nhiều nhưng tiêu thoát yếu, cửa Đà Rằng ở hạ lưu thường bị bồi lấp, mưa lớn 400 – 700 mm/ngày làm lũ dâng cao và ngập sâu trên diện rộng.

Trên lưu vực sông Ba (Đắk Lắk, Gia Lai), 6 hồ chứa có vai trò điều tiết lũ gồm Sông Ba Hạ, Sông Hinh, Krong H'Nang, An Khê - Ka Nak,
Ayun Hạ, Ia M'Lá, với tổng dung tích hơn 1,4 tỷ m3. Đồ hoạ:Hoàng Khánh

Tại Quảng Ngãi, Trà Khúc là lưu vực sông lớn nhất. Mùa lũ hàng năm kéo dài từ tháng 10 đến tháng 12. Trên lưu vực sông có 6 công
trình thủy điện vừa giữ vai trò phát điện vừa điều tiết lũ. Trong đó, hồ thủy điện Đăk Đrinh và hồ thủy lợi Nước Trong có tổng dung tích đón lũ
lớn nhất.

Địa hình lưu vực này bị chia cắt ngang mạnh nên độ dốc cao, lưu vực sông hẹp, sông ngắn và dốc, vùng đồng bằng thấp trũng, sát bờ biển. Khả
năng thoát lũ chịu ảnh hưởng lớn của thủy triều. Thời gian xuất hiện lũ thường trùng với thời điểm triều cường làm tăng mức ngập lụt tại các khu
vực cửa sông, giảm khả năng thoát lũ, ảnh hưởng toàn bộ thành phố Quảng Ngãi.

Tính đến 14h, trạm Củng Sơn (Sông Ba) và Trà Khúc (sông Trà Khúc) đều trên báo động 2. Mực nước tại hồ Sông Hinh (sông Ba) đang có xu hướng
tăng. Trong khi, hồ Nước Trong (sông Trà Khúc) lũ giảm từ sáng 17/11.

Tại Kon Tum cũ, việc điều tiết lũ trên lưu vực sông Sê San phụ thuộc 5 hồ chứa. Theo quy trình vận hành liên hồ chứa, khi mực
nước tại các trạm trên báo động 2, cụ thể Kon Tum trên 519,7 m và Kon Plong trên 593,5 m, phải giảm lũ cho hạ du. Đây là lưu vực nằm trong vùng
mưa không nhiều, mùa lũ kéo dài từ tháng 7 kéo dài đến tháng 11. Hàng năm có khoảng 4-6 trận lũ, kéo dài 4-5 ngày, dài nhất 10 ngày, thường xuyên
gây ngập lụt ở những khu vực địa hình thấp như thành phố Kon Tum, Đắk Tô, Kon Rẫy.

Mực nước tại sông Sê San tăng từ chiều 16/11, hiện gần đạt báo động 2. Dung tích các hồ chứa trên lưu vực này đều lấp đầy hơn 90%, nhiều nơi
tăng lưu lượng xả để chuẩn bị đón lũ.

Lưu vực sông Hương nằm trọn trong địa phận thành phố Huế, gồm ba nhánh chính: sông Bồ, sông Hữu Trạch và sông Tả Trạch. Đây là
lưu vực có lượng mưa nhiều nhất Việt Nam, trung bình năm trên 2.600 mm. Thượng nguồn địa hình dốc, nhiều thác ghềnh, mùa lũ lưu lượng, vận tốc
cao, thời gian truyền lũ ngắn, trung bình 5-6 giờ từ thượng nguồn (Thượng Nhật) đến hạ lưu (Kim Long). Trung bình hàng năm có 3-4 trận lũ trên
báo động 2, trong đó có 1-2 trận lớn và đặc biệt lớn.

Mực nước lũ trên báo động ba 1 m sẽ gây ngập diện rộng cho thành phố Huế, thị xã Hương Trà, Quảng Điền, Phú Vang. Vai trò cắt lũ phụ thuộc vào
hệ thống hồ chứa với 3 hồ có dung tích lớn nhất gồm hồ Tả Trạch, Bình Điền, và Hương Điền.

Trên lưu vực sông Hương - sông Bồ, ba hồ có vai trò điều tiết lũ là hồ Tả Trạch, Bình Điền và Hương Điền, với tổng dung tích gần 1,9
tỷ m3. Đồ hoạ:Hoàng Khánh

Theo quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hương, khi có cảnh báo mưa, lũ khả năng gây ngập, lụt ở hạ du trong vòng 24-48h, các hồ
phải vận hành giảm lũ. Dự báo lượng mưa cường suất mạnh nhất tập trung vào ngày 17-18/11, nguy cơ ngập lụt ở vùng thấp trũng thuộc hạ du các sông
trên toàn thành phố, ngập úng tại Phú Xuân, Thuận Hóa, An Cựu… Khả năng gây lũ, lũ quét sạt lở tại Phong Điền, Nam Đông, A Lưới…

Đến 14h chiều 17/11, trạm Phú Ốc (sông Bồ) đã trên báo động 2, trạm Kim Long (sông Hương) trên báo động 2. Xu hướng mực nước lũ tại hồ Bình
Điền tăng, cho thấy đang tích lũ để giảm áp lực cho hạ du sông Bồ. Trong khi, lũ tại hồ Tả Trạch giảm, giúp hồ có thêm dung tích đón lũ mới.

Tại Đà Nẵng, hệ thống sông chính là Vu Gia – Thu Bồn, mưa lớn tập trung vào tháng 10, 11. Trung bình hàng năm có 4 trận lũ trên
báo động 1, thời gian lũ kéo dài khoảng 3-5 ngày, dài nhất 6-7 ngày. Ở thượng lưu và trung lưu, do cường suất mưa lớn, địa hình dốc, lòng sông
hẹp nên lũ lên, xuống nhanh. Hạ lưu độ dốc lòng nhỏ, nhiều hướng đổ ra biển, lũ lên chậm nhưng rút chậm, nhất là gặp triều cường.

Mực nước sông từ báo động 1 trở lên gây ngập vùng trũng, báo động 2 và 3, ngập nhiều vùng bãi bồi, đồng rộng, tuyến đường giao thông. Từ báo
động 3, hầu hết đồng bằng bị ngập. Khu vực thường xảy ra ngập úng như Đại Lộc, Điện Bàn, Hội An, Hòa Vang, thời gian ngập ở vùng dân cư phổ biến
từ 6-48h. Tuy nhiên, trong đợt lũ 25- 29/10, nhiều nơi ngập nặng kéo dài, như Hội An ngập hơn một tuần, sâu 2 m.

Sông Vu Gia – Thu Bồn là một trong những lưu vực có hệ thống hồ chứa thủy điện phức tạp và dày đặc nhất Việt Nam. Quy mô nhất là A Vương, Đắk
Mi 4, Sông Tranh 2, Sông Bung 4…

Tính đến chiều 17/11, trạm Ái Nghĩa trên sông Vu Gia trên báo động 3. Các hồ chính trên lưu vực đều tăng mực nước lũ, hiện đạt 85% đến 96%
dung tích.

Các hồ lớn Sông Tranh 2, A Vương, Đăk Mi 4 có vai trò điều tiết lũ lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn, với tổng dung tích là 1,3 tỷ m3. Đồ
hoạ:Hoàng Khánh

Tại Gia Lai, hai lưu vực lớn nhất là sông Kôn – Hà Thanh (Bình Định cũ) và sông Ba (Gia Lai cũ).

Hơn 70% tổng lượng mưa cả năm trên lưu vực sông Kôn – Hà Thanh (1.800-2.400 mm) dồn vào tháng 10 và 11. Lũ trên sông này có đặc điểm
lên nhanh, rút chậm và biên độ lớn. Các trận lũ lớn vượt báo động 3 (trên 3,7 m) chiếm 42,4% tổng số trận lũ. Địa hình dốc, thung lũng hẹp, đồng
bằng bị bao quanh bởi núi đồi nên thời gian truyền lũ ngắn (5-7 giờ).

Nước lũ thường lên nhanh do độ dốc lớn, đạt biên độ cao (6-8 m) và thường duy trì 3-5 ngày, gây ngập lụt diện rộng kéo dài tại vùng hạ du như
Tuy Phước, Phù Cát, và một phần TP Quy Nhơn. Tại các khu vực trung du và miền núi như Vĩnh Thạnh, Tây Sơn và Vân Canh, mưa lớn liên tiếp dễ gây
lũ quét với đỉnh lũ có thể trên 12 m, cùng nguy cơ sạt lở nghiêm trọng.

Các hồ Định Bình, Trà Xom 1, Núi Một, Thuận Ninh có vai trò điều tiết lũ trên lưu vực sông Kôn - Hà Thanh (Gia Lai), với tổng dung
tích là 412 triệu m3. Đồ hoạ:Hoàng Khánh

Theo quy định về vận hành liên hồ mùa lũ, khi mực nước tại trạm Bình Nghi đạt 16,2 m và trạm Thạnh Hòa đạt 7 m, các hồ Trà Xom 1, Định Bình,
Núi Một, Thuận Ninh phải dừng xả nước đón lũ để tạo dung tích. Ngược lại, nếu mực nước tại hai trạm này chạm ngưỡng 16,5 mét và 7,5 mét là tín
hiệu bắt buộc các hồ phải vận hành xả lũ tối đa để cắt đỉnh lũ, bảo vệ vùng hạ du.

Mưa liên tiếp nhiều ngày khiến nhiều khu vực đất gần hoặc đã đạt trạng thái bão hoà, nguy cơ lũ quét, sạt lở trải dài từ Quảng Trị đến Lâm
Đồng.
Trong đó, tâm điểm là các tỉnh Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Đăk Lăk, Quảng Ngãi, Khánh Hoà nguy cơ cao và rất cao.

TS Trịnh Hải Sơn, Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, phân tích các tỉnh Nam Trung Bộ như Huế, Quảng Ngãi, TP Đà Nẵng có đặc
điểm địa hình phân cắt, là nguồn chảy của các sông lớn chảy ra biển. Đây cũng là khu vực có cấu trúc địa chất phức tạp, nơi giao nhau của các đới
đứt gãy phương Đông Bắc – Tây Nam, đất đá bị cà nát dập vỡ mạnh.

Nhất là các địa phương chịu ảnh hưởng nặng của đợt lũ vừa qua, đất đá đã ngấm nước dài suốt tháng 10 tới nay càng dễ gây lũ lụt ở khu vực đồng
bằng, sạt lở đất đá ở miền núi.

Theo ông Sơn, khi đất bão hòa, độ gắn kết đã giảm từ 15 đến 20%, đất sẽ sạt lở theo một độ dốc. Ngoài yếu tố kích hoạt chủ chốt là lượng mưa,
thì còn phụ thuộc vào các yếu tố ở khu vực đó như độ dốc địa hình, chiều dày của đất, độ gắn kết của đất, mực nước ngầm địa phương, thảm thực vật
trên đất.

Lượng mưa lớn (>150 mm) trên nền đất đã bị bão hòa có thể phát sinh sạt lở, hình thành các đập chắn tạm thời tại các khu vực suối nhánh
thượng nguồn, dẫn tới các dòng chảy vật liệu, lũ quét. Đất bị bão hòa nước sẽ làm giảm khả năng chịu tải của nền đường, sườn dốc địa hình, gây ra
sụt lún và sạt lở bất ngờ.

TS Sơn khuyến cáo chính quyền ngoài việc rà soát, di dời dân cư sống trong khu vực mất an toàn, cần triển khai lực lượng chốt chặn, cấm tuyệt
đối các hoạt động giao thông qua ngầm tràn, cầu yếu, các tuyến đường đèo nguy cơ sạt lở cao.

Đối với người dân, nếu chưa thể di tản tới nơi kiên cố, trong thời gian xảy ra mưa lớn, cần quan sát dấu hiệu sạt lở như tiếng động lạ (đất đá
lăn), cây nghiêng bất thường và nước suối đục ngầu. Khi nhận thấy, hãy di chuyển theo hướng an toàn, tránh đường đi của các dòng chảy vật liệu
trượt. Tuyệt đối không trú ẩn dưới gầm cầu, bờ sông, bờ suối và không cố gắng đi qua các khu vực nước chảy xiết, cửa thoát của các lưu vực suối,
tránh rủi ro do ảnh hưởng của dòng chảy vật liệu gây ra.

Nội dung: Mây Trinh
Dữ liệu: Quang Tuệ và Gia Chính
Đồ hoạ: Quang Tuệ

Về dữ liệu: Dữ liệu mực nước trên các sông được cập nhật từ Hệ thống Giám sát Thiên tai Việt Nam; lưu lượng hồ
chứa cập nhật từ Hệ thống cơ sở dữ liệu công khai về hồ, đập của Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam. Một số hồ thiếu giá trị (lưu lượng xả hoặc đến)
do dữ liệu từ nguồn
Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam được cập nhật chưa đầy đủ. Dữ liệu khu vực có nguy cơ sạt lở, lũ quét cập nhật từ Cục Khí tượng Thuỷ văn.