Ngày xưa, loài người tích lũy kinh nghiệm chữa bệnh qua vô số lần thử – sai, rồi lại thử. Truyền thuyết kể lại, vua Thần Nông một ngày nếm 100 cây cỏ để tìm thuốc chữa bệnh, từ đó soạn ra sách Thần Nông bản thảo, ghi chép 365 vị thuốc. Y học phương Tây cũng có nhiều câu chuyện về sự ra đời tình cờ của các phương thuốc.
Ngày nay, nghiên cứu thuốc mới không còn là những phát hiện tình cờ hoặc vô định như thế nữa, mà có định hướng rõ ràng. Quá trình từ ý tưởng đến một thuốc mới phải qua chặng đường dài gồm hai giai đoạn: tiền lâm sàng và lâm sàng.
Ở giai đoạn tiền lâm sàng, các nhà khoa học nghiên cứu sâu về cơ chế hình thành và tiến triển của bệnh, nhằm phát hiện những bất thường ở cấp phân tử. Từ đó, họ tìm kiếm các hợp chất có khả năng điều chỉnh hoặc khôi phục hoạt động bình thường của hệ thống sinh học bị rối loạn. Hàng nghìn hợp chất được sàng lọc, thử nghiệm và tối ưu dần để đánh giá hiệu lực, độ an toàn và khả năng hấp thu, cho đến khi tìm ra hợp chất có tiềm năng nhất trở thành thuốc, đưa vào phòng thí nghiệm.
Khi kết quả từ phòng thí nghiệm bước đầu chứng minh tác dụng chữa bệnh và an toàn trên động vật, cơ sở nghiên cứu sẽ thử nghiệm lâm sàng trên người tình nguyện.
Ở giai đoạn 3, thử nghiệm lâm sàng diễn ra trên quy mô lớn với hàng trăm đến hàng nghìn bệnh nhân, so sánh thuốc mới với phương pháp điều trị tiêu chuẩn để xác nhận hiệu quả và tính an toàn. Nếu kết quả khả quan, đơn vị nghiên cứu mới nộp hồ sơ đưa thuốc ra thị trường. Cơ quan quản lý dược phẩm quốc gia sẽ xem xét chấp thuận. Ví dụ một trong những cơ quan uy tín nhất thế giới là Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA).
Thuốc sau khi ra thị trường vẫn tiếp tục theo dõi đánh giá trong nghiên cứu lâm sàng giai đoạn 4, nếu có gì bất lợi có thể bị rút lại đăng ký.
Theo các báo cáo của y học thế giới, trung bình mất khoảng 10-15 năm và trên 800 triệu USD để nghiên cứu và phát triển thành công một thuốc mới, từ giai đoạn phát hiện cho tới khi đưa vào điều trị.
Nhìn vào chặng đường gian nan và chi phí khổng lồ đó, ta mới hiểu tại sao pháp luật lại bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đến thế – với thời hạn bảo hộ bằng sáng chế lên tới 20 năm, để cho các hãng dược độc quyền sản xuất, có thời gian thu hồi vốn và có lãi, nhằm tiếp tục đầu tư thuốc tiếp theo. Trong đợt dịch Covid-19, các hãng chạy đua sản xuất vaccine, sau cùng chỉ còn một vài hãng về đến đích, trong đó có Moderna và Pfizer. Và họ bán vaccine ra thị trường với giá 20-30 USD một liều, trong khi giá thành sản xuất chỉ khoảng 5 USD.
Việt Nam tất nhiên cũng áp dụng nguyên xi các bước trên khi nghiên cứu thuốc mới. Vì thế ta phần nào hiểu, đó là lý do Việt Nam hầu như chưa đóng góp được thuốc gì mới cho nhân loại. Hàng nghìn ý tưởng mới chỉ dừng lại ở mức trên giấy – trong các luận án y khoa. Tiền đâu mà triển khai đến tận cùng ra sản phẩm?
Còn nếu nhập thuốc mới từ nước ngoài, pháp luật có quy định rõ về thử nghiệm lâm sàng.
Thông tư 03/2012/TT-BYT có quy định về trường hợp được miễn thử nghiệm lâm sàng: thuốc chưa được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam nhưng đã lưu hành hợp pháp ít nhất 5 năm tại nước xuất xứ, và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước đó xác nhận là an toàn và hiệu quả; có cùng đường dùng, hàm lượng, và có chỉ định ở Việt Nam giống như chỉ định ở nước đó.
Đến thông tư 12/2025 TT-BYT, điều kiện đã nới lỏng hơn, chỉ cần được cấp phép lưu hành tại ít nhất một nước trên thế giới và đã có dữ liệu lâm sàng đầy đủ theo Cơ quan quản lý dược phẩm châu Âu (EMA) và Cơ quan quản lý dược chặt chẽ (SRA – Stringent Regulatory Authorities).
Tuy nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ, do yêu cầu của tình trạng y tế khẩn cấp, Bộ Y tế có thể ra quyết định sử dụng ở Việt Nam mà không cần đủ các điều kiện trên. Như đợt dịch Covid-19, ngay sau khi các nước Mỹ, Anh, Trung Quốc cấp phép cho sử dụng các vaccine chống Covid, Việt Nam cũng chấp thuận cho dùng các vaccine đó mà không cần thử nghiệm lâm sàng. Quyết định đó của Bộ Y tế đã góp phần nhanh chóng đẩy lùi dịch.
Ngày 31/10, Bộ Y tế ban hành quyết định số 628/QĐ-QLD cho 14 vaccine, sinh phẩm được cấp giấy đăng ký lưu hành tại Việt Nam, hiệu lực 3 năm, trong đó có thuốc Pembroria (hoạt chất chính là Pembrolizumab, hàm lượng 100mg/4ml) do Công ty Limited Liability “PK-137” (Nga) sản xuất, được một cơ sở ở Các Tiểu Vương quốc Ả-rập Thống nhất đăng ký.
Hoạt chất pembrolizumab là kháng thể đơn dòng điều trị các loại ung thư. Việt Nam đang sử dụng thuốc Keytruda của hãng Merck có thành phần trên. Tại Nga, Pembroria được phê duyệt tháng 4/2022 trong một bối cảnh đặc biệt. Khi ấy, do lo ngại thiếu hụt thuốc gốc Keytruda sau các lệnh trừng phạt kinh tế, chính phủ Nga ban hành nghị định cho phép áp dụng “cơ chế đăng ký cấp tốc”.
Nếu chiếu theo các điều luật của Việt Nam thì thuốc trên không phải là thuốc mới với thị trường Việt Nam, nên không trải qua thử nghiệm lâm sàng trước khi được xem xét cấp phép lưu hành.
Bộ Y tế cũng cho biết Pembroria đã có đầy đủ hồ sơ lâm sàng pha 1, 2, 3, nhưng chưa công bố chi tiết về kết quả. Cục Quản lý Dược một mặt khẳng định thuốc Pembroria đã hoàn tất các nghiên cứu lâm sàng vào năm 2024, mặt khác vẫn yêu cầu “cơ sở đăng ký phải định kỳ 3 tháng một lần cập nhật tiến độ triển khai nghiên cứu lâm sàng theo dõi tính sinh miễn dịch pha III và nộp hồ sơ dữ liệu cập nhật khi thời gian nghiên cứu kết thúc”.
Việc này, dù Cục giải thích là “yêu cầu bắt buộc với nhóm thuốc sinh phẩm tương tự”, vẫn gây nên những băn khoăn nhất định, đặc biệt là trong bối cảnh, ở Nga, thuốc được cấp phép trong theo cơ chế “đăng ký cấp tốc”.
Theo WHO, mỗi năm Việt Nam ghi nhận khoảng 165.000 ca mắc mới, 115.000 ca tử vong do ung thư. Thêm một cơ hội tiếp cận với thuốc mới, chi phí thấp hơn, là thêm một hy vọng sống cho người bệnh.
Giá thuốc Pembroria ước tính thấp hơn hoặc tương đương các sản phẩm cùng hoạt chất. Dự kiến năm 2026 thuốc mới có mặt trên thị trường Việt Nam nhưng nhiều bệnh nhân đã sốt ruột nhờ tôi tư vấn. Trong đó, có những câu hỏi khiến tôi rất suy nghĩ: “Thuốc đã chứng minh hiệu quả lâm sàng đến đâu?”, “Nếu tôi đồng ý điều trị bằng Pembroria, tôi sẽ là khách hàng hay bệnh nhân tham gia vào quá trình theo dõi tính sinh miễn dịch pha III?”…
Tôi nghĩ đó là những câu hỏi chính đáng mà Cục Quản lý Dược nên giải thích thấu đáo.
Với bệnh nhân ung thư, đặc biệt là bệnh nhân ung thư nghèo – những người không có nhiều tiền để lựa chọn, và không có nhiều thời gian thử rồi sửa sai – mọi quyết định đều có thể là quyết định cuối cùng. Nếu không thể giúp họ nhiều hơn, ít nhất cần minh bạch thông tin để họ có căn cứ đưa ra quyết định phù hợp nhất với mình.
Quan Thế Dân