Tại phiên thảo luận kinh tế – xã hội ở Quốc hội ngày 30/10, GS Nguyễn Thiện Nhân đề xuất nâng tuổi nghỉ hưu lên 65 để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng. Theo ông, giai đoạn 2026-2030, để GDP hàng năm tăng 10% thì năng suất cần tăng 8,5% và bổ sung 1,45% lao động mới. Tuy nhiên, tăng về số lượng khó đạt vì lao động Việt Nam dự báo đạt đỉnh vào 2025 và giảm dần do mức sinh giảm. Về đề xuất này, nhiều chuyên gia cho rằng cần tính toán kỹ, bởi hiệu quả kinh tế phụ thuộc vào năng suất chứ không chỉ vào số lượng người làm việc.
Còn theo phân tích mới đây, ông Tim Evans, Tổng giám đốc HSBC Việt Nam cho rằng, trong bối cảnh toàn cầu đang chuyển dịch sang các ngành nghề ít đòi hỏi sức khỏe thể chất, mang tính dịch vụ cao hơn, việc tăng tuổi nghỉ hưu là bước đi cần thiết để duy trì lực lượng lao động và hệ thống hưu trí quốc gia.
“Chính sách cần cởi mở với khái niệm ‘già hóa chủ động’ và điều chỉnh chu kỳ đời sống kinh tế”, ông khuyến nghị. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa già hóa chủ động (Active Ageing) là “quá trình tối ưu hóa các cơ hội về sức khỏe, sự tham gia và an toàn nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống khi con người già đi”.
Trong đó, từ “chủ động” (active) đề cập đến sự tham gia liên tục vào các hoạt động xã hội, kinh tế, văn hóa. Theo ông Tim Evans, cân nhắc tăng tuổi hưu là một trong 3 giải pháp ứng phó với tình trạng già hóa dân số nhanh chóng.
Giải pháp còn lại là mở rộng chăm sóc sức khỏe dự phòng toàn dân, nhằm kéo dài tối đa thời gian sống khỏe mạnh, độc lập, giảm chi phí y tế dài hạn, vốn là gánh nặng chi tiêu công. Đồng thời, khuyến khích sinh con và lập gia đình thông qua hỗ trợ tài chính và cơ sở hạ tầng cụ thể. Ví dụ chính sách nghỉ thai sản và trợ cấp tốt; trợ cấp trực tiếp bằng tiền; giảm thuế gia đình đông con; mở rộng mạng lưới cơ sở hạ tầng chăm sóc trẻ em có trợ cấp.

Theo Bộ Y tế, cả nước có 16,1 triệu người cao tuổi, chiếm 16% dân số. Việt Nam thuộc nhóm già hóa nhanh nhất châu Á, thời gian chuyển từ giai đoạn “già hóa dân số” sang “dân số già” dự kiến chưa đầy 20 năm, trong khi Nhật Bản mất 24 năm.
Ông Tim cho rằng kết hợp giữa tốc độ già hóa nhanh và mức thu nhập trung bình khiến Việt Nam sẽ đối mặt với 3 thách thức lớn, là lý do cân nhắc nâng tuổi hưu.
Thứ nhất, gánh nặng tài khóa tăng nhanh. Tương tự châu Âu, chi phí công liên quan đến dân số cao tuổi – gồm chăm sóc sức khỏe, hưu trí, phúc lợi xã hội – chắc chắn tăng. Chi phí này còn gồm nhu cầu phát sinh tương lai như hệ thống bảo hiểm chăm sóc dài hạn toàn diện, trợ cấp nhà ở hoặc hạ tầng phù hợp người già.
Bài toán ngân sách vì thế càng khó, dẫn đến khả năng thâm hụt tài khóa lớn hơn, buộc nhà nước đối diện những lựa chọn khó khăn về thuế hoặc nợ công. Trong khi, đầu tư thường chậm lại khi dân số lao động giảm và tăng trưởng GDP yếu đi.
“Tác động này ở Việt Nam sẽ nghiêm trọng hơn nhiều nền kinh tế phát triển vì phần lớn thế hệ nghỉ hưu hiện nay ở những quốc gia này (nước giàu) đều nắm trong tay nhiều tài sản”, ông nhận định.
Thứ hai, thế hệ trẻ đối mặt áp lực tài chính ngày càng lớn. Khi lực lượng lao động thu hẹp, những người trẻ sẽ phải gánh thêm trách nhiệm hỗ trợ một số lượng lớn người về hưu mà vẫn đối mặt với chi phí sinh hoạt leo thang.
Áp lực kinh tế tăng tác động trực tiếp đến các lựa chọn trong cuộc sống, góp phần vào tỷ lệ sinh giảm, tạo ra vòng luẩn quẩn. “Gánh nặng tài chính lớn khiến người dân e ngại lập gia đình và ảnh hưởng đến lực lượng lao động thay thế”, ông nêu.
Cuối cùng, áp lực chăm sóc người cao tuổi ngày càng tăng. Truyền thống Á Đông quy định trách nhiệm con cái chăm sóc cha mẹ già. Hình thức chăm sóc phi chính thức và không được trả lương này lại là một chi phí xã hội rất lớn, theo chuyên gia.
Một người con sẽ có thể phải lo cho 6 người cao tuổi, gồm 2 cha mẹ và 4 ông bà. Điều đó gây ra căng thẳng tâm lý nghiêm trọng, có thể buộc những người trẻ, đặc biệt là phụ nữ, giảm giờ làm hoặc rời khỏi thị trường lao động, gây ra thiệt hại kinh tế tiềm ẩn như mất năng suất, cơ hội thăng tiến nghề nghiệp.
Đồng tình tăng tuổi nghỉ hưu nhưng ông Tim Evans cho rằng cần triển khai linh hoạt, tức tùy chỉnh theo từng ngành nghề cụ thể, đi kèm với đầu tư mạnh mẽ vào các chương trình học tập lâu dài và đào tạo lại kỹ năng cho lao động.
Ngoài ra, cần quy định chống phân biệt đối xử và chế độ làm việc linh hoạt cho người lao động cao tuổi, đảm bảo họ có thể tiếp tục đóng góp hiệu quả cả về kinh tế và xã hội, biến gánh nặng dân số già thành nguồn lực nhân sự dày dạn kinh nghiệm cho giai đoạn phát triển tiếp theo của Việt Nam.
Theo WHO, khi tỷ lệ thất nghiệp cao, thường có xu hướng cho rằng giảm số lao động lớn tuổi có thể tạo việc làm cho người trẻ. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy cho nghỉ hưu sớm để nhường chỗ cho người thất nghiệp không phải là giải pháp hiệu quả, theo nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD).
Ở các nước kém phát triển, người cao tuổi thường tiếp tục làm việc do nhu cầu và điều kiện kinh tế. Nhưng với công nghiệp hóa, công nghệ mới và dịch chuyển thị trường lao động, nhiều công việc truyền thống của họ đang thu hẹp.
WHO cũng lưu ý 3 khía cạnh kinh tế để “già hóa chủ động” có thể triển khai trên thực tế. Theo đó, chính sách này cần gắn với những chương trình giảm nghèo mọi lứa tuổi vì người nghèo có nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Các nghiên cứu cho thấy người cao tuổi thu nhập thấp có chức năng vận động bằng khoảng một phần ba so với thu nhập cao.
Đồng thời, khi truyền thống nhiều thế hệ chung sống giảm dần, cần xây dựng cơ chế an sinh xã hội hỗ trợ người cao tuổi. Tại các nước phát triển, chúng gồm: lương hưu, quỹ hưu trí nghề nghiệp, tiết kiệm tự nguyện, quỹ tiết kiệm bắt buộc và các chương trình bảo hiểm khuyết tật, bệnh tật, chăm sóc dài hạn và thất nghiệp.
Cuối cùng, WHO cho rằng nếu nhiều người có được cơ hội việc làm tử tế (trả công phù hợp, môi trường làm việc an toàn, được bảo vệ trước rủi ro) ngay từ sớm, họ sẽ bước vào tuổi già với khả năng tiếp tục tham gia lực lượng lao động lâu hơn.
Viễn Thông